Chi tiết - Sở Tư pháp

Trên cơ sở bám sát quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, cùng với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh và Lãnh đạo Sở Tư pháp, Phòng Xây dựng và Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã chủ động tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh, Lãnh đạo Sở Tư pháp ban hành 17 văn bản để chỉ đạo, triển khai, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện công tác xây dựng, thẩm định, tham gia, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế trên địa bàn tỉnh Quảng Trị một cách toàn diện, kịp thời, có hiệu quả; kết quả cụ thể như sau:

       Công tác xây dựng pháp luật

     Trong 6 tháng đầu năm, HĐND, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành 15 văn bản quy phạm pháp luật (02 Nghị quyết; 13 Quyết định).

      Phòng đã phối hợp với Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện tốt công tác lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; công tác lập danh mục văn bản quy định chi tiết  luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, cụ thể đã tham mưu Lãnh đạo Sở trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành 09 văn bản ban hành các danh mục đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh để phân công cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các Luật được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 (Luật Người lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; Luật Bảo vệ môi trường; Luật Chăn nuôi).

       Bên cạnh đó, Phòng đã tiến hành rà soát hiệu lực thi hành và cập nhật 65 văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật. Quá trình cập nhật văn bản đảm bảo đúng theo quy định tại Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 của Chính phủ về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.

       Công tác thẩm định, tham gia dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

      Phòng đã tiến hành thẩm định 22 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Sở, ban, ngành gửi đến (tăng 04 văn bản so với cùng kỳ năm trước); tham gia 25 dự thảo văn bản do cơ quan ở Trung ương và địa phương gửi đến (tăng 05 văn bản so với cùng kỳ năm trước).

       Công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật

       Phòng đã tham mưu Lãnh đạo Sở trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch để tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

     Trong 6 tháng đầu năm, đã thực hiện kiểm tra tại chỗ 15 văn bản quy phạm pháp luật do UBND cấp huyện ban hành; tự kiểm tra 13 văn bản quy phạm pháp luật do UBND tỉnh ban hành. Qua kiểm tra chưa phát hiện văn bản vi phạm cần phải xử lý.

       Phòng đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thường xuyên rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý, tham mưu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 99/QĐ-UBND ngày 15/01/2021 về việc công bố kết quả rà soát văn bản và danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của tỉnh Quảng Trị năm 2020.

       Phối hợp với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh thực hiện rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật gây vướng mắc, ách tắc, cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội; Rà soát đề xuất định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật; Phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tiến hành kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ban hành thuộc lĩnh vực Quốc phòng và đã lập các Danh mục rà soát văn bản theo quy định.

       Công tác hướng dẫn nghiệp vụ

       Để giúp các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, Phòng  đã tham mưu Lãnh đạo Sở ban hành 03 văn bản để hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

       Công tác pháp chế

       Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện công tác pháp chế năm 2021 trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Báo cáo số 59/BC-UBND ngày 16/4/2021 về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế.

       Ngoài ra, Phòng còn tham mưu Lãnh đạo Sở thực hiện các công tác khác, cụ thể như: Tham gia ý kiến vào các dự thảo văn bản hành chính của các cơ quan ở Trung ương, địa phương và 10 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp huyện; thực hiện đánh giá, chấm điểm để xác định chỉ số cải cách hành chính (Par index) tỉnh Quảng Trị năm 2020; Đề xuất nội dung dự kiến rà soát, nhận diện đầy đủ các tồn tại, hạn chế của quy định pháp luật trước tác động mạnh mẽ, dài hạn của đại dịch Covid-19; Rà soát quy định xoá tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp; tham gia ý kiến vào Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án Cảng hàng không Quảng Trị;…

       Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm, Phòng Xây dựng và Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Lãnh đạo Sở tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật; công tác pháp chế và các công tác khác. Công tác tham gia, thẩm định đã đạt những kết quả nhất định, ngày càng chú trọng về nội dung của văn bản. Hầu hết các ý kiến thẩm định đều được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu. Phần lớn các hồ sơ dự thảo văn bản gửi đến đề nghị thẩm định đều đầy đủ theo đúng quy định (một số hồ sơ không đầy đủ, Phòng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung đầy đủ hồ sơ theo đúng quy định trước khi thực hiện việc thẩm định). Công tác tham gia, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng của công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành tuân thủ đúng quy trình, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật cơ bản bảo đảm tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp giữa văn bản địa phương và văn bản cấp trên; tính hiệu lực, hiệu quả và tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật, từ đó bảo đảm chất lượng của văn bản được ban hành khi tổ chức triển khai thực hiện; góp phần hoàn thiện các cơ chế, chính sách, cải thiện chất lượng các quy định của pháp luật, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

       Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật còn có những hạn chế, khó khăn sau đây:

       Thứ nhất, về thể chế: Quy định của các văn bản pháp luật chuyên ngành về phân cấp chưa thống nhất với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương dẫn đến khó khăn trong xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật để phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới các nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền. Cụ thể:

       Khoản 1, Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định: “1. Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

       Theo quy định trên, việc phân cấp theo quy định trên chỉ áp dụng giữa cơ quan nhà nước với cơ quan nhà nước (Ví dụ: chỉ phân cấp thẩm quyền của UBND cho cơ quan chuyên môn hoặc đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của UBND), trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, tức là Luật, Nghị định hoặc Thông tư có quy định phân cấp nội dung và đối tượng nào thì áp dụng theo các văn bản đó. Tuy nhiên, tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có quy định về phân cấp, nội dung quy định về đối tượng được phân cấp có quy định khác so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương (bao gồm phân cấp cho cá nhân). Ví dụ: phân cấp thẩm quyền quyết định điều chuyển, bán tài sản công thực hiện theo quy định của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP, Nghị định số 165/2017/NĐ-CP (điểm c khoản 1 Điều 20, điểm d khoản 2 Điều 22 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP…); phân cấp quyết định thu hồi tài sản công tại cơ quan Đảng theo quy định tại Nghị định số 165/2017/NĐ-CP (điểm d khoản 2 Điều 24  Nghị định 165/2017/NĐ-CP…). Như vậy, giữa Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản khác có sự không thống nhất. Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cứng là chỉ phân cấp giữa cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương với nhau, pháp luật khác lại quy định việc phân cấp cho cá nhân (Chủ tịch, Giám đốc Sở, thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công lập…).

       Thứ hai, chất lượng của việc lấy ý kiến góp ý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại các văn bản quy phạm pháp luật tại các cơ quan, đơn vị chưa cao, đa số ý kiến nhất trí với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

       Thứ ba, một số cơ quan chưa tuân thủ đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) về trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như thời gian lấy ý kiến tham gia chưa đảm bảo theo đúng quy định; hồ sơ gửi thẩm định còn thiếu…nên ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công tác thẩm định cũng như việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 

       Thứ tư, một số cơ quan, đơn vị chưa kịp thời rà soát văn bản ngay khi có căn cứ rà soát đối với văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của HĐND, UBND thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao để kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới đảm bảo đúng tiến độ của văn bản quy định chi tiết; Một số cơ quan, đơn vị chưa cập nhật, triển khai đầy đủ, kịp thời các quy định về xây dựng văn bản nên đã ảnh hưởng đến tiến độ chung của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

       Thứ năm, đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật chủ yếu là cán bộ, công chức của các Sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã, các chuyên viên của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Trong khi đó, theo Nghị định 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế thì tại các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ thành lập một phòng pháp chế thực hiện công tác xây dựng pháp luật, tuy nhiên, ở tỉnh Quảng Trị, cán bộ làm công tác pháp chế đều là kiêm nhiệm nên phần nào ảnh hưởng đến công tác xây dựng pháp luật nói chung và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng.

       Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, đề nghị Bộ Tư pháp đề xuất Chính phủ khi thực hiện chính sách cải cách tiền lương cần quan tâm đến đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế và đội ngũ công chức làm công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Bên cạnh đó, đề nghị Bộ Tư pháp có ý kiến với các bộ ngành có liên quan để tháo gỡ khó khăn cho địa phương trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về phân cấp; Thường xuyên tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thẩm định và xây dựng chính sách ở địa phương. Khi Bộ tổ chức tập huấn về công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản cần mở rộng đến các đối tượng là cán bộ pháp chế các Sở, ngành cấp tỉnh; công chức của Phòng Tư pháp cấp huyện; Sớm đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn./.

                                                           

                                                                                                                             Nguyễn Giang