Chi tiết - Sở Tư pháp

 

Ngày 03/02/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam, Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 20/3/2020 (sau đây gọi tắt là Nghị định) và thay thế Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam; Nghị định số 97/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.

Sau đây là một số nội dung mới, nổi bật của Nghị định số 16/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam:

Thứ nhất, bổ sung quy định về việc hủy giá trị giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã cấp cho người thôi quốc tịch, tước quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.  Tại khoản 1, Điều 4 Nghị định quy định: “Kể từ ngày Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của một người có hiệu lực pháp luật, giấy tờ quy định tại Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam đã cấp cho người đó không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam’’. Theo đó, kể từ ngày Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của một người có hiệu lực pháp luật thì những giấy tờ như: Giấy khai sinh, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu Việt Nam, Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn trong công tác quản lý dân cư và đảm bảo quyền lợi của các cá nhân có liên quan (trước đây, không có văn bản pháp lý quy định về việc hủy giá trị giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã cấp cho người thôi quốc tịch, tước quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam). Đồng thời, Nghị định cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xóa đăng ký thường trú, thu hồi và hủy giá trị sử dụng Hộ chiếu Việt Nam, CMND, Căn cước công dân của những đối tượng thuộc quy định nêu trên. Bên cạnh đó, người được thôi quốc tịch, bị tước quốc tịch, bị hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam cũng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an để làm thủ tục xóa đăng ký thường trú, nộp lại Hộ chiếu Việt Nam, Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân theo quy định của pháp luật có liên quan. Trường hợp giấy tờ hộ tịch của người đã thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam có ghi quốc tịch Việt Nam thì việc thông báo và ghi chú vào sổ hộ tịch việc thay đổi quốc tịch được thực hiện theo quy định tại Điều 25 của Nghị định này.

Thứ hai, khẳng định nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam theo Điều 4 của Luật Quốc tịch. Cụ thể tại Điều 5 của Nghị định quy định: ‘‘Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác’’. Quy định này nhằm khẳng định lại và cụ thể hóa nguyên tắc một quốc tịch theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Mặt khác, quy định này khắc phục được tình trạng trên thực tế tồn tại những cách hiểu khác nhau về cụm từ “trừ trường hợp luật này có quy định khác” tại Điều 4 Luật quốc tịch Việt Nam: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp luật này có quy định khác”.

Description: Hướng dẫn lập hồ sơ nhập quốc tịch Việt Nam cho người di cư tự do trên địa bàn tỉnh Quảng Trị                  Hướng dẫn lập hồ sơ nhập quốc tịch Việt Nam cho người di cư tự do trên địa bàn tỉnh  Quảng Trị

Thứ ba, bổ sung quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Điều 6 của Nghị định quy định các hành vi bị cấm bao gồm: Dùng giấy tờ giả, giấy tờ bị sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung, khai báo không trung thực, có hành vi gian dối để làm thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch; dùng giấy tờ không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị định này để chứng minh đang có quốc tịch Việt Nam; lợi dụng thẩm quyền được giao để cấp giấy tờ về quốc tịch Việt Nam, giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ khác có ghi quốc tịch Việt Nam trái quy định của pháp luật, xác nhận không có cơ sở, không đúng sự thật về người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam; lợi dụng việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và việc xin giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam để xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam. Quy định này, tạo cơ sở pháp lý để xử lý đối với những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quốc tịch khi có phát sinh trên thực tế (trước đây chưa có văn bản pháp lý quy định).

Thứ tư, quy định chi tiết về các trường hợp đặc biệt khi xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam. Tại Điều 9 của Nghị định quy định chi tiết về các trường hợp đặc biệt xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam, cụ thể là khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: Có đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật quốc tịch Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam và việc nhập quốc tịch đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài là có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, theo quy định này thì người xin nhập quốc tịch Việt Nam thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ tất cả các điều kiện trên thì được coi là trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 3, Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam và được Chủ tịch nước xem xét việc cho nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài. Đối với trường hợp khác (không thuộc trường hợp đặc biệt), UBND cấp tỉnh và Bộ Tư pháp yêu cầu người phải thôi quốc tịch nước ngoài theo quy định chung của pháp luật quốc tịch.

Thứ năm, quy định chi tiết về các trường hợp đặc biệt xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam. Điều 14 của Nghị định quy định người xin trở lại quốc tịch Việt Nam thuộc khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau thì được coi là trường hợp đặc biệt để trình Chủ tịch nước xem xét quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam và giữ quốc tịch nước ngoài, bao gồm: Có đủ điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam; việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi trở lại quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước có quốc tịch bị ảnh hưởng; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có thể thấy rằng, việc quy định chi tiết, cụ thể hơn về các trường hợp đặc biệt khi xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 19, khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam là một “điểm sáng” trong quy định pháp luật về quốc tịch tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết hồ sơ quốc tịch, căn cứ xem xét các điều kiện xin giữ quốc tịch nước ngoài khi xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam tránh được tình trạng có cách hiểu khác nhau về quy định của pháp luật quốc tịch, dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện trên thực tế.  

Thứ sáu, quy định chi tiết thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam theo khoản 3 Điều 21 của Luật Quốc tịch Việt Nam. Cụ thể, tại Điều 11 của Nghị định quy định trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài mà không có đủ giấy tờ chứng minh thuộc trường hợp đặc biệt theo quy định, Bộ Tư pháp có văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để yêu cầu người xin nhập quốc tịch tiến hành thôi quốc tịch nước ngoài. Trong thời hạn 9 tháng, kể từ ngày Bộ Tư pháp có văn bản thông báo mà người xin nhập quốc tịch Việt Nam không bổ sung được hồ sơ, không hoàn thiện đủ điều kiện hoặc không nộp văn bản của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho thôi quốc tịch nước ngoài, thì được coi là người đó không tiếp tục xin nhập quốc tịch Việt Nam và Bộ Tư pháp trả lại hồ sơ.

Như vậy, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam ban hành đã khắc phục những hạn chế, thiếu sót của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, các văn bản hướng dẫn thi hành và giải quyết kịp thời những vướng mắc, bất cập trong công tác quốc tịch thời gian qua, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. 

                                                                                                                   Lê Huyền