Chi tiết - Sở Tư pháp

 

Sau ngày tái lập tỉnh (01/7/1989), lãnh đạo tnh đã quyết định thành lập hệ thống các Sở, ban ngành cấp tỉnh và Sở Tư pháp là một trong 31 Sở ngành được thành lập theo Quyết định số 01/QĐ-UB ngày 10/7/1989 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Ngày đầu mới thành lập, Sở Tư pháp chỉ có 05 cán bộ được tách ra từ Sở Tư pháp tỉnh Bình Trị Thiên. Cơ sở vật chất thiếu thốn trăm bề, điều kiện sinh hoạt và làm việc hết sức khó khăn. Tổ chức bộ máy của Sở còn khiếm khuyết, chưa thành lập các phòng chức năng, chưa có tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên… Tuy nhiên, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và Bộ Tư pháp, cùng với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành; sau hơn 35 năm xây dựng và phát triển, Ngành Tư pháp tỉnh Quảng Trị từng bước lớn mạnh và trưởng thành cả về tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất cũng như về công tác chuyên môn nghiệp vụ. Hệ thống cơ quan tư pháp từ tỉnh, huyện, thành phố đến các xã, phường, thị trấn, các cơ quan bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp như: Luật sư, Công chứng, các tổ chức Giám định tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản đã được thành lập và thường xuyên được củng cố, kiện toàn một cách đồng bộ, hoạt động đạt hiệu quả cao, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật góp phần ổn định kinh tế - chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh. Đến nay, tổng số công chức, viên chức, người lao động thuộc Sở Tư pháp là 56 công chức, viên chức và người lao động. Trong đó có 06 thạc sĩ; 44 Đại học Luật; 04 Đại học ngành khác và 02 người có trình độ sơ cấp nghề. Đảng bộ Sở Tư pháp có 3 Chi bộ trực thuộc với 47 đảng viên. Công đoàn Sở Tư pháp có 56 đoàn viên. Chi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có 15 đoàn viên.

Qua hơn 35 năm hoạt động, Sở Tư pháp đã đạt được một số kết quả nổi bật đáng ghi nhận, góp phần quan trọng trong việc xây dựng thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Tập trung nổi bật ở các lĩnh vực sau:

Trước hết, trong công tác tham gia, xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp, đã tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tổ chức lấy ý kiến nhân dân, cán bộ các ngành, các cấp tham gia vào hàng trăm dự thảo Luật, Pháp lệnh, tổng hợp báo cáo lên cấp trên đúng kế hoạch, tiến độ. Các Bộ luật, đạo luật quan trọng như dự thảo Hiến pháp năm 1992, dự thảo sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Hiến pháp năm 1992; Hiến pháp năm 2013; Bộ luật dân sự năm 1995; Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1999; Bộ luật Hình sự năm 2015; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật Giám sát của Quốc hội và HĐND;... đều được tổ chức lấy ý kiến sâu rộng đến mọi đối tượng, có chất lượng cao, thiết thực. Thực hiện tham gia xây dựng, thẩm định gần 3000 văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính khả thi các văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân cùng cấp ban hành.

Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL là cơ chế kiểm soát văn bản QPPL sau khi ban hành, là công cụ quan trọng, hữu hiệu để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận của văn bản QPPL, qua đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, phục vụ sự phát triển của đất nước nên Sở Tư pháp đặc biệt chú trọng lĩnh vực này. Hàng năm, đã tham mưu xây dựng kế hoạch, ban hành văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, rà soát văn bản theo quy định, chú trọng công tác kiểm tra, rà soát văn bản theo lĩnh vực, địa bàn quản lý để kịp thời phát hiện, xử lý, khắc phục sai sót, bất cập, hạn chế, hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển KT-XH, nhất là trong hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh. Việc xử lý văn bản không phù hợp pháp luật đã được thực hiện ngày càng nghiêm túc, hiệu quả hơn. Phần lớn những bất cập sau khi được phát hiện, kết luận đều được cơ quan ban hành có phương án xử lý trên tinh thần cầu thị, trách nhiệm, vì lợi ích chung của xã hội. Đã thực hiện kiểm tra, tự kiểm tra, kiểm tra tại địa bàn gần 6000 văn bản. Thông qua công tác kiểm tra đã phát hiện 263 văn bản QPPL có chứa các quy định không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành/có sai sót về mặt thể thức, kỹ thuật trình bày. Qua đó, đã thông báo và kiến nghị xử lý 100% văn bản.

Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL được chú trọng thực hiện.  Trong giai đoạn này đã hoàn thành việc rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL qua các thời kỳ:

- Thực hiện Chỉ thị số 166/HĐBT tháng 6/1989, Chỉ thị số 57/TTg ngày 21/11/1997 và Quyết định số 355/TTg ngày 28/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về tổng rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1976 đến 1996. Hàng chục ngàn văn bản đã được rà soát; hàng ngàn văn bản đã được đề nghị huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung góp phần khắc phục, giảm bớt những mâu thuẫn, chống chéo, lạc hậu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương và hệ thống pháp luật của Nhà nước . Đặc biệt là đợt rà soát thực hiện Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức, toàn ngành đã tổ chức rà soát được 8.448 văn bản, kiến nghị xử lý trên 300 văn bản trong đó có một số quy định liên quan đến thủ tục giải quyết công việc của công dân và tổ chức như thủ tục Giao đất, cấp giấy pháp đăng ký kinh doanh, đầu tư, xuất nhập khẩu, hộ tịch, hộ khẩu ...

- Hoàn thành rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL 13.864 văn bản của HĐND tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành từ 01/7/1989 đến 31/12/2012, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định công bố danh mục các văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thi hành, văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật phải sửa đổi, bổ sung; Ngoài ra, thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quy hoạch từ năm 1989 đến 31/10/2007, lên danh mục 440 văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành; 374 văn bản của Hội đồng Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã ban hành gửi các cơ quan có liên quan tham gia ý kiến trước khi trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành; rà soát văn bản thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp do địa phương ban hành từ 1989 đến 31/12/2007 lên danh mục 106 văn bản báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh gửi Bộ Tư Pháp.

- Hoàn thành 02 kỳ hệ thống hóa văn bản (kỳ 2014 – 2018 với 536 văn bản QPPL và kỳ 2019-2023 với 848 văn bản QPPL), trình UBND tỉnh ban hành quyết định công bố danh mục các văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thi hành, văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật phải sửa đổi, bổ sung.

Công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm làm cho các đối tượng hiểu rõ, hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Nhà nước, trong đó ngành tư pháp tham gia với trách nhiệm chính. Trong 35 năm qua, từ khi tỉnh nhà được lập lại, công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã được nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về vai trò, vị trí, được nâng cao hơn về chất lượng, đa dạng, phong phú hơn về hình thức, góp phần quan trọng nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong công tác giáo dục tư tưởng, chính trị. Với sự tham mưu của ngành Tư pháp ở các cấp, hàng ngàn văn bản pháp luật đã được phổ biến tuyên truyền đến tận cơ sở, đặc biệt là từ khi Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị 02/1998/CT-TTg ngày 7/1/1998 về tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 32/CT/TW ngày 9/12/2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Quốc hội ban hành Luật Phổ biến giáo dục pháp luật. Đến nay, với sự tham mưu của Ngành Tư pháp, công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã được thực hiện có nề nếp theo những chương trình dài hạn, theo kế hoạch thống nhất của địa phương. Từ 1998, Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh, huyện, thị xã được thành lập và hoạt động khá hiệu quả, huy động được sức mạnh, nguồn lực chung của các ngành, các cấp trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật. Mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật không ngừng được tăng cường, về chất lượng, số lượng phát huy vai trò lực lượng nòng cốt đưa pháp luật vào cuộc sống, đến các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số (hiện nay, toàn tỉnh có 478 Báo cáo viên pháp luật, 1373 Tuyên truyền viên pháp luật). Nhiều hình thức, phương pháp tuyên truyền được triển khai đa dạng phong phú hơn: Ngoài các hình thức truyền thống như tuyên truyền thông qua hội nghị, thông qua chuyên mục trên sóng phát thanh- truyền hình, thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý tại cơ sở, thông qua các loại hình câu lạc bộ, thông qua các phiên toà lưu động của toà án, thông qua hoạt động hoà giải, thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, thông qua việc xây dựng các tủ sách pháp luật, điểm bưu điện văn hoá ở cơ sở. Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của Internet, công tác PBGDPL qua Internet ngày một trở nên phổ biến (thông qua Trang/Cổng thông tin điện tử, Facebook, Zalo ) để đăng tải nội dung PBGDPL, đã thu hút rất nhiều lượt tương tác. Công tác phổ biến giáo dục pháp luật đang thực sự góp phần nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của từng cán bộ, người dân ở địa phương, tạo dần nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật trong cán bộ, nhân dân .

Công tác Hành chính tư pháp là những lĩnh vực rộng, thường xuyên gắn với địa phương, cơ sở lại liên quan trực tiếp đến đời sống và quyền lợi của người dân, do đó từ năm 2002 đến nay toàn ngành đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, công khai thủ tục hành chính và lệ phí trong hoạt động chứng thực, hộ tịch, lí lịch tư pháp, rút ngắn thời gian giải quyết, bỏ bớt các khâu trung gian nên không để xảy ra hiện tượng ùn tắc trong lĩnh vực hoạt động này.

- Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch: Công tác hộ tịch được bàn giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp từ năm 1987 đến nay đã được 38 năm. Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Nghị định 158/2005/NĐ-CP và Luật Hộ tịch là cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác quản lý hộ tịch. Sở đã thường xuyên và kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương cấp huyện, cấp xã tăng cường công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Thủ tục hành chính thường xuyên được rà soát, niêm yết công khai, tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu tổ chức của tổ chức và công dân. Đến nay, công tác quản lý đăng ký hộ tịch đang đi vào nề nếp. Đặc biệt, trong giai đoạn này, thực hiện Thỏa thuận giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Lào về việc giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới, Sở Tư đã phối hợp với Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan đã tiến hành rà soát, đối chiếu và lập hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam cho 756 người di cư tự do khu vực biên giới thuộc huyện Hướng Hóa và Đakrông có tên trong danh sách được Trưởng đoàn đại biểu biên giới phê duyệt, trong đó có 734 người đã được Chủ tịch nước có Quyết định cho nhập quốc Việt Nam. Việc nhập quốc tịch Việt Nam cho người di cư tự do khu vực biên giới thuộc huyện Hướng Hóa và Đakrông đã bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, tạo thuận lợi cho người di cư tự do có điều kiện ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng và được hưởng các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam; đồng thời góp phần ngăn chặn tổ chức, cá nhân hoặc nhóm người xấu lợi dụng, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự vùng biên giới hai nước Việt Nam - Lào. Ngoài ra, Sở cũng đã hoàn thành số hóa Sổ hộ tịch trên địa bàn tỉnh Quảng Trị với 783.931 dữ liệu, đã chuyển CSDL hộ tịch điện tử của Bộ Tư pháp 744.731 dữ liệu (95%), trùng 39.200 dữ liệu không chuyển được (5%).

- Công tác Lý lịch tư pháp được triển khai từ năm 1998, đến tháng 3/2025 Sở Tư Pháp phối hợp với Trung tâm Lý lịch tư pháp Quốc gia, cơ quan công an xác minh, các ngành liên quan tiếp nhận và đã cấp gần 50.000 phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của công dân để hành nghề, xuất khẩu lao động, xuất cảnh đoàn tụ hoặc đi thăm người thân ở nước ngoài. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được chú trọng thực hiện. Đã tiếp nhận và xử lý gần 31000 thông tin lý lịch tư pháp, và đã cập nhật thông tin lý lịch tư pháp vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp theo quy định.

Công tác bổ trợ tư pháp luôn được quan tâm, tăng cường chỉ đạo đáp ứng nhu cầu của người dân và phục vụ tốt hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp, đảm bảo tình hình an ninh trật tự và phát triển kinh tế - xã hội. Việc phát triển các nghề tư pháp như luật sư, công chứng, đấu giá tài sản... trong thời gian qua tiếp tục được tăng cường theo định hướng phát triển số lượng đi đôi với tăng cường chất lượng. Điều này đã góp phần làm giảm công việc và chi phí của nhà nước, tăng cường tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm an toàn pháp lý và thúc đẩy các giao dịch trong hoạt động kinh tế, dân sự, việc phát triển các nghề mới như thừa phát lại, quản tài viên cũng được quan tâm thực hiện. Đến nay, Đoàn Luật sư tỉnh có 09 tổ chức hành nghề luật sư (08 văn phòng và 01 công ty luật). Tổng số luật sư thuộc Đoàn luật sư là 29 người; 08 tổ chức hành nghề công chứng (02 Phòng Công chứng và 06 Văn phòng công chứng) với 14 công chứng viên; 05 tổ chức đấu giá (Trung tâm dịch vụ Bán đấu giá và 04 doanh nghiệp đấu giá tài sản) với tổng số đấu giá viên là 10 người và 01 Chi nhánh doanh nghiệp đấu giá tài sản (Công ty đấu giá hợp danh Nhất an phú- Chi nhánh tỉnh Quảng Trị); 02 tổ chức giám định tư pháp (Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế và Phòng Kỹ thuật Hình sự thuộc Công an tỉnh) và 01 tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; Số giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh có 76 người và 10 giám định theo vụ việc. Trong thời gian qua, các tổ chức giám định tư pháp đã giám định hàng ngàn vụ việc theo trưng cầu giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác. Các tổ chức này đã công chứng, chứng thực hàng ngàn hợp đồng kinh tế, dân sự, hàng trăm bản dịch, hàng chục ngàn bản sao ... đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong việc tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự ... góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội và quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương. Các tổ chức đấu giá tài sản đã thực hiện bán đấu giá Quyền sử dụng đất, các tài sản bị xử lý tịch thu sung quỹ nhà nước do vi phạm hành chính, tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án và các tài sản khác theo hợp đồng uỷ quyền của người có tài sản, tăng thu cho ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

            Công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách đã được triển khai thực hiện ở địa phương từ năm 1998. Qua hơn 25 năm thành lập và đi vào hoạt động, chức năng xuyên suốt của Trung tâm TGPL là thực hiện TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Đây là hoạt động thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước, thể hiện truyền thống đạo lý của dân tộc, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối những đối tượng thuộc diện được TGPL. Thời gian qua cùng với sự trưởng thành và phát triển của hoạt động TGPL trên cả nước, Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Quảng Trị đã không ngừng lớn mạnh về tổ chức và bộ máy. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được củng cố, kiện toàn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đến nay, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh thuộc Sở Tư Pháp có 01 phòng chuyên môn và 02 chi nhánh Trợ giúp pháp lý tại huyện Đakrông và huyện Hướng Hóa. Đội ngũ viên chức làm công tác trợ giúp pháp lý hiện có 17 người, trong đó có 11 trợ giúp viên pháp lý. Tính đến hết năm 2024, Trung tâm đã thực hiện TGPL với trên 40.000 vụ việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng được TGPL. Trong đó: tham gia tố tụng: 2.727 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng: 242 vụ việc; tư vấn: 37.000 vụ việc và tổ chức hàng trăm đợt trợ giúp lưu động về cơ sở nhất là các xã có nhiều đối tượng chính sách và người nghèo, xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Qua đó, đã kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được TGPL là người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng yếu thế khác, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; góp phần quan trọng vào sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã.

Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được tăng cường quản triển khai thực hiện. Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Trị được thành lập theo Quyết định 1786/QĐ- UBND ngày 22 tháng 8 năm 2007 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị. Đến tháng 4/2008 thanh tra sở mới chính thức đi vào hoạt động. Qua hơn 16 năm thực hiện công tác, Thanh tra Sở đã tiến hành trên 224 cuộc thanh tra, kiểm tra trên hầu hết các lĩnh vực: công chứng, chứng thực, luật sư, đấu giá tài sản, hộ tịch...Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý và kiến nghị khắc phục nhiều bất cập, sơ hở trong thể chế, chính sách hiện hành trên các lĩnh vực nhất là trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương như: Đăng ký lại; đăng ký kết hôn; thay đổi, cải chính hộ tịch; đăng ký nhận cha, mẹ, con; nuôi con nuôi....Công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ngày càng đi vào nền nếp, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động quản lý. Đồng thời, qua công tác thanh tra, kiểm tra, Lãnh đạo Sở nắm được tình hình và thực trạng công tác tư pháp địa phương ở các lĩnh vực, từ đó có định hướng, kiến nghị để nâng cao hiệu lực quản lý của Sở Tư pháp.

Ngoài ra, những năm gần đây, Sở Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới như: Theo dõi thi hành pháp luật, pháp chế, bồi thường nhà nước, đăng ký giao dịch bảo đảm, quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.... Đây là những lĩnh vực mới, rộng và khó. Biên chế bổ sung cho những lĩnh vực này chưa đáp ứng yêu cầu nhưng ngành Tư pháp Quảng Trị đã triển khai kịp thời những nhiệm vụ trên, góp phần tích cực vào thành tích chung của ngành Tư pháp Việt Nam.

Với những thành tích đạt được trong công tác tư pháp, Sở tư pháp tỉnh Quảng Trị vinh dự được tặng nhiều bằng khen của UBND tỉnh, Bộ Tư pháp. Đặc biệt năm 2009, Sở được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen; năm 2011, 2018 được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua xuất sắc; năm 2011, 2022 được Bộ Tư pháp tặng Cờ thi đua xuất sắc; Năm 2013 được tặng Huân chương Lao động hạng ba; Năm 2019 được tặng Huân chương Lao động hạng Nhì.

                                                                                                            Trần Lan Chi