Chi tiết - Sở Tư pháp

 

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Luật đã sửa đổi, bổ sung 53 nội dung và  có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2021. Sau đây là một số nội dung cơ bản:

1.Về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL)

Luật đã bổ sung vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật các loại văn bản sau: Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ . Không ban hành Thông tư liên tịch giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2021, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nước ta gồm có 26 loại văn bản.

 

2. Về quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL: 

 Để khắc phục một số vướng mắc đã được nhận diện qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật đã cho phép HĐND cấp tỉnh được quy định thủ tục hành chính khi ban hành Nghị quyết để quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

 

3. Về thẩm quyền ban hành VBQPPL của HĐND và UBND cấp huyện, cấp xã (Điều 30): 

Về cơ bản vẫn giữ nguyên như quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, chỉ bổ sung thêm đối với trường hợp HĐND, UBND cấp huyện ban hành văn bản quy phạm pháp luật để phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật đã quy định cụ thể như sau: “(1.) Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương. (2.) Hội đồng nhân dân cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật, nghị quyết của Quốc hội giao.”

 

4. Về đề nghị xây dựng nghị quyết:

Để khắc phục như những tồn tại hạn chế của Luật năm 2015, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh, Luật sửa đổi lần này đã quy định cụ thể chỉ đối với đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có nội dung quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì trước khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân phải thực hiện theo quy định từ Điều 112 đến Điều 116 của Luật này.

 

 5. Về việc đánh giá tác động của chính sách đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh (Điều 119): 

Việc đánh giá tác động của chính sách đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được thực hiện từ giai đoạn lập đề nghị xây dựng nghị quyết. Tuy nhiên, qua tổng kết 03 năm thi hành Luật, Chính phủ nhận thấy, quy trình này làm kéo dài thời gian ban hành văn bản, hạn chế khả năng phản ứng nhanh của chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội. Do đó, để phù hợp hơn với điều kiện thực tế, tạo thuận lợi cho địa phương nhưng vẫn bảo đảm chất lượng xây dựng văn bản, Luật đã sửa đổi theo hướng chuyển quy trình đánh giá tác động của chính sách từ giai đoạn lập đề nghị sang giai đoạn soạn thảo nghị quyết đối với các nghị quyết có nội dung quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm pháp luật ( 2.)Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.(3.) Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương.) nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các vấn đề trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.

6. Về thẩm định dự thảo nghị quyết do UBND cấp tỉnh trình; trình tự thủ tục hò sơ gửi thẩm định đối với dự thảo quyết định:

 Có ý kiến đề nghị nâng thời hạn thẩm định của Sở Tư pháp từ 10 ngày lên thành 15 ngày hoặc quy định kéo dài thời hạn thẩm định trong trường hợp cần thiết. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho chỉnh lý tăng thời hạn thẩm định của Sở Tư pháp lên 15 ngày, đồng thời tăng thời hạn gửi hồ sơ từ 20 ngày lên 25 ngày trước ngày UBND cấp tỉnh họp như quy định tại Điều 121 của dự thảo Luật. Bên cạnh đó, tại Điều 134 và Điều 139 của Luật cũng được điều chỉnh tăng thời hạn thẩm định của Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện, thời hạn gửi hồ sơ thẩm định tương ứng để bảo đảm tính thống nhất trong dự thảo Luật.

Luật cũng đã quy định rõ, cụ thể hơn nội dung thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh, về thời hạn, hồ sơ, nội dung thẩm định dự thảo quyết định của UBND huyện.

Nội dung thẩm định dự thảo quyết định của UBND tỉnh gồm: (a) Sự cần thiết ban hành quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Luật này; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo quyết định; (b) Sự phù hợp của nội dung dự thảo quyết định với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo quyết định với hệ thống pháp luật; (c) Sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo quyết định, nếu trong dự thảo quyết định có quy định thủ tục hành chính; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo quyết định, nếu trong dự thảo quyết định có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới;(d) Nguồn lực, điều kiện bảo đảm thi hành quyết định;(đ) Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Đồng thời, Báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ ý kiến của cơ quan thẩm định về nội dung thẩm định quy định tại khoản 3 Điều này và ý kiến về việc dự thảo quyết định đủ điều kiện hoặc chưa đủ điều kiện trình Ủy ban nhân dân.Báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định.

          7. Về các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn:

          Để xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu lực, hiệu quả thì đòi hỏi phải có quy trình xây dựng và ban hành văn bản hết sức chặt chẽ. Bên cạnh quy trình xây dựng và ban hành văn bản hết sức chặt chẽ thì xây dựng và ban hành văn bản pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn là quy trình đặc biệt trong xây dựng và ban hành văn bản pháp luật cũng được đặc biệt coi trọng.  Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 chỉ quy định 03 trường hợp được xây dựng, ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn (Điều 146), tuy nhiên, từ thực tế triển khai luật, khắc phục những bất cập của Luật năm 2015, lần này Luật đã mở rộng phạm vi văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn đối với trường hợp văn bản quy phạm pháp luật ban hành để bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách trong thực tiễn. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2021, có 05 trường hợp được ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn, đó là: (1.) Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. (2.) Trường hợp cần ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (3.) Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Trường hợp cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. (5.) Trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng  toàn bộ hoặc một phần  của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn./.

 

                                                                                                                         Dương Hà

                  Phòng Xây dựng và Kiểm tra văn bản QPPL